Chương 4

Cái tội trộn đường vào mì chính của tôi cũng đã lâu, nhạt rồi, quả nhiên chẳng còn ai biết hay biết cũng thôi, cơ quan lúc nào chẳng có những thời sự mệt mỏi. Vả lại, tôi vừa đi những ba đợt cải cách ngót hai năm trở về với cái giấy ghi chức vụ đội phó phụ trách toà án kèm tờ chứng nhận và giới thiệu đảng viên. Mạnh quá. Thế là tôi đàng hoàng phổng mũi.
Một hôm, tôi được phòng tổ chức gọi lên. Á à, có thế chứ… Tôi bắt đầu tưởng tượng ra những kiến hiệu của các thứ giấy tờ.
- Đồng chí ngồi.
Sự trịnh trọng lại kèm câu nói cộc lốc hơi lạ khiến tôi hồi hộp. Tôi ngồi xuống ghế. Quen tay, lấy sổ cộng tác và cái bút mấy “oe rơ vơ” ra cầm sắn.
- Địa phương có đơn về đồng chí.
- Địa phương nào, việc gì ạ?
- Ở xã cải cách, đơn tố cáo.
Tôi được đưa xem cái đơn. Tôi nảy đom đóm mắt - Những đêm đi gác, ở trong lều, đã chung cha với những ai, nằm ngồi thế nào, ai bằng lòng, ai bị đè ra, ôi chao, ở những bờ tường, những bụi chuối… Đơn lại tố cáo tôi đảng viên giả có chữ ký của Cự - đội trưởng cải cách. Thế có chết không, nó cho húp nước đường lại tống theo quả lửa. Bao nhiêu tên ký, trông hoa lên những Gái, những Nụ, những Má, những Tôm, những… Chẳng biết trong đám chữ ký tíu tít có Duyên, có Đơm không. Dưới tờ đơn có chữ ký của đội trưởng, đội phó sửa sai xác nhận và đề nghị kiểm điểm một đệp những cuộc họp tố cáo các xóm Am, xóm Chuôm, xóm Đìa và cả những xóm tôi chưa đến bao giờ.
- Ý kiến đồng chí ra sao?
- Tôi… tôi… Tôi không nói được thế nào.
- Thế là đồng chí đã nhận.
- Không, tôi phản đối, tôi…
- Các cấp xác nhận rành rành ra đây, thế là đích xác rồi. Có 10 điều cấm khi đi cải cách, đồng chí đã vi phạm tất cả mà điều 4 nặng nhất.
Tôi ngồi tây ngây. Những câu dội nước đá, tôi chỉ ấp úng, lắp bắp không ra đầu đuôi.
- Thôi, về.
Chẳng khác đuổi tôi.
Tôi nhìn người trưởng phòng tổ chức, mặt đen gồ ghề, đầu hói. Bên chân bàn có cái xích buộc chiếc điếu cày. Tôi ngỡ ông là đội sửa sai, về đây xử tôi, nghiêm quá. Tôi lủi thủi ra.
Hội đồng kỷ luật bắt tôi thôi việc vi phạm lỗi nặng về hủ hoá và giả mạo giấy tờ. Có thể bị truy tố, những cơ quan chiếu cố. Không lương hưu, chỉ được lĩnh nốt lương tháng ấy. Tôi chẳng là cái đinh gì, cũng không biết ai thù tôi, chẳng lẽ lại là cái lão trưởng phòng tổ chức mới được điều ở đâu về tôi mới biết mặt. Tôi cắm cúi viết đơn gửi lên cục, lên bộ. Chẳng đâu trả lời. Hồi ấy, tội hủ hoá còn bị coi xấu xa nặng nề hơn cả việc giả mạo giấy tờ. Tôi bị mất việc.
Trong nhà đâm ra lục đục, ai oán làm sao. Lương tôi và tem phiếu cũng chẳng đủ nuôi ai, những cũng là một cọc tiền có ngữ. Con trai tôi đã lên mười. Vợ tôi vốn chân chạy chợ gặp gì vơ nấy.
Mua thì cái rau, mớ chè, có khi ngược tàu Phòng lên, lẩn được cán bộ thuế. Có khi chui thoát thúng cá, con mực. Ả kiếm ra miếng mới được thêm thắt đồng ra đồng vào. Bỗng dưng đâm ra hẫng.
Lại thêm vợ chồng ở với nhau lâu cũng sinh nguy, cãi nhau vặt rồi cãi nhau to, rồi đánh nhau cũng thành thói quen lúc nào không biết, cũng như trông nó cứ bẩn mắt dần mà từ trước kia không thấy. Cái môi nó trều nhờn nhợt trề ra gớm chết. Cái áo phơi ngoài dây thép, hai nách thâm xì, lưng áo mồ hôi dầu ăn bạc phếch, sao tởm thế mà ngày trước không để ý.
Mỗi ngày lại thêm một cái khó chịu. Ăn uống thì bốc bải, hay nói dối vặt, hình như ngày trước tính nết nó khác. Người này nói, người kia vặc lại. Um nhà một lúc, hung lên rồi xông vào thụi nhau.
Họ cũng chẳng chịu lép, bớp lại tôi ra trò. Tôi xước mặt, toác cả áo. Tôi không thể cạy thế thằng đàn ông được. Dạo trước, thỉnh thoảng có lục đục, láng giềng sang lôi hai bên ra, cũng khi ban hoà giải khối phố đến phân tích lý lẽ. Rồi đến nữa, vì mới hôm trước hôm sau đã lại loạn lên.
Ngày ngày qua. Những xô xát trong nhà tôi thành trò cười, như hát hay, hàng phô không ai hơi đâu đến cản ngăn. Từ khi mất việc lại càng não nùng, khi lại chính tôi là thằng xuống thế.
Tôi chẳng biết một nghề ngỗng gì. Nhưng mà ở đất đô hội, có người thì sinh ra việc. Cũng như ở rừng trời cho củ mài, củ nâu, ở phố phường khó khăn mấy rồi cũng tìm ra cái ăn. Đống rác có người bới nhặt. Rồi thì bó củi, mài dao, móc cống, cái bơm xe đứng ngã ba ngã tư, thêm hòm đồ và xăm lốp. Phải có cách nào kiếm được thì mới đõ nhục.
Tôi xắm chiếc bơm xe đạp.
Tôi nhảy lên cái cán bơm, mặt cúi vục xuống, không dám nhìn lên. Lâu lâu, đã quen tôi khoan thai ấn cái bơm, trong bụng yên yên một chút.
Máy bay Mỹ ném bom liên miên. Giữa thành phố bom bị rắc hàng thúng vào chỗ cây đa đền Bà Kiệu, rơi lõm bõm xuống hồ Gươm. Người ta lũ lượt chạy khỏi thành phố. Càng nhiều người đi xa, phải bơm xe cho căng, tôi vẫn đứng với cái bơm ở ngã năm. Vợ tôi đem thằng còn chạy bom, đi đâu tôi cũng không hỏi. Đêm trước vừa to tiếng, tôi bóp cổ mụ đến lúc kêu ằng ặc tôi mới nới tay, rồi lại đánh nhau tiếp mặc kệ còi báo động với máy bay ầm ừ trên trời. Sớm hôm sau, mụ đi thẳng.
Máy bay Mỹ ném bom liên miên. Giữa thành phố bom bị rắc hàng thúng vào chỗ cây đa đền Bà Kiệu, rơi lõm bõm xuống hồ Gươm. Người ta lũ lượt chạy khỏi thành phố. Càng nhiều người đi xa, phải bơm xe cho căng, tôi vẫn đứng với cái bơm ở ngã năm. Vợ tôi đem thằng còn chạy bom, đi đâu tôi cũng không hỏi. Đêm trước vừa to tiếng, tôi bóp cổ mụ đến lúc kêu ằng ặc tôi mới nới tay, rồi lại đánh nhau tiếp mặc kệ còi báo động với máy bay ầm ừ trên trời. Sớm hôm sau, mụ đi thẳng.
Từ đấy, không còn tăm hơi hai mẹ con. Đầu tiên, tôi cũng tưởng mụ chỉ dỗi bo bo lăng nhăng rồi lại đâu vào đấy như mọi khi. Nhưng rồi bặt hẳn. Tôi sốt ruột, nhưng cũng không biết thế nào biết hỏi ai. Hàng phố xì xào. Cô ấy đã theo người ta xuống Nam Định, tôi trông thấy ở Chợ Rồng… Cô ấy trốn vào Nam rồi. Có người lại nói như thật: có ấy số đỏ như tiên rồi, xin được chân phụ bếp ở cục phục vụ được sang nấu bếp ở nhà khách sứ quán ta bên Liên Xô. Những cũng chỉ là nghe nói, chẳng thấy tăm hơi đâu. Thế rồi đến năm đất nước thống nhất cũng vẫn bằn bặt thế. Có lúc nghĩ hay là vướng bom đạn chết đủ đường chết chợ rồi. Trong chiến tranh, biết bao nhiêu người mất tin, mất tích, không phải riêng mẹ con nhà nó.
Tôi ở gian nhà ọp ẹp ấy và vẫn một mình với cái bơm xe. Hiu quạnh, có lúc cũng nhớ cái khi tung hoành ở xóm Am, xóm Chuôm nhưng chỉ nghĩ đến đã xấu hổ, còn ra cái thá gì mà vác mặt về.
Lưỡi dao cạo hiếm mà đắt, tôi chẳng buồn cạo, mặc kệ. Râu ria tóc tai bù xù như con gấu vườn Bách Thảo. Tôi cảm thấy mau lão quá, ngoài năm mươi mà lụ khụ, nói nói thở thở. Tôi đo sức bằng mỗi lần bơm xe. Năm trước chỉ ấn một cái được một nhát bơm, bây giờ phải nhảy trẹo mông mấy lần, buổi chiều thì móp bụng lại, đến bốn phát mới xuống được một nhát. Tối về lử lả, xiêu vẹo, xách cái bơm cũng trĩu tay, mặc dầu tôi tịnh không chè thuốc, bia rượu. Cái già xốc đến tận đít rồi. Đàn bà con gái dửng dưng qua mắt tôi và tôi cũng nhìn người ta thờ ơ như nhác mắt qua đường.
Một hôm, tôi nhận được giấy bưu điện báo nhận hàng. Lật xem đi xem lại: bưu cục Bờ Hồ báo lần thứ nhất - tôi đi hỏi người ta bảo giấy này gửi từ bên nước Úc. Tôi bỏ một buổi làm, lên hiệu sách xem nhờ tờ bản đồ treo bán tìm nước Úc ở đâu. Đêm mất ngủ, hay là bưu điện nhầm. Tôi lại mở giấy xem lại, rõ rằng viết số nhà cái buồng cái lều này và cả ba bốn bên đường phố hàng xóm bảo năm này chỉ có một Nguyễn Văn Bối tôi.
Tôi lên nhà bưu điện. Người ta cho biết hàng nước ngoài gửi về phải có sổ nhận hàng trên thành phố cấp. Tôi bảo tôi không biết về hỏi hàng gì. Có nhân viên chỉ cho tôi trong ngăn tủ bề bộn, một hộp giấy vuông vắn: “Đây, hôm nào đủ giấy tờ, hải quan cho mở ra mới biết hàng gì, bác ạ “.
Rồi tôi cũng lo được từ khối dân phố lên khu, lên thành phố cho có nổi một tờ giấy sổ lĩnh hàng nước ngoài. Tiền mua các thứ phí tổn bạc nghìn. Đến nơi lại bảo nộp phạt tiền lưu kho mất hai nghìn rưỡi. Nặng quá, tôi đã nghĩ toan bỏ. Nhưng đằng nào cũng đâm lao rồi, tôi lại về cào cấu, cả giật nóng, cả vay lãi ngày. Cũng có lúc chợt hoảng. Nhỡ một cái lại là cái hộp cứt như trong truyện Trạng Quỳnh thì có mà toi đời. Nhưng không, một gói những lọ, những hộp xinh xinh. Người hải quan xem từng lọ rồi bảo đây là thuốc bổ, được phép nhận.
Tôi ôm cái hộp lên ngực mới gạt được đám người bám ngoài cửa, nhao nhao:
- Thuốc à? Có bán không. Bao nhiêu? Xem nào, xem nào…
Tôi đứng bơm hàng ngày một cụm ngã năm ấy, có người bơm xe lại đã thành quen biết, một vài phút đợi bơm, đã ra khối chuyện phố phường. Chỉ hôm sau, tôi đã hỏi biết được toàn thuốc vitamin A, B, C, B6. Thuốc Pháp, thuốc Mỹ, đắt đấy, bán được tiền. Tôi hỏi mỗi người một tý, chắp lại, đã ước lượng được giá cả. Thế là không dưng trời cho tôi của.
Ai ở nước Úc gửi cho tôi? Không có thư, không tên người gửi. Hàng chữ tên tôi, số nhà, phố thì đánh máy. Người ta bảo ở các nước văn minh, ra hiệu xe đạp, mua cái xe rồi lại thuê gửi, thế là cửa hiệu cứ việc đóng gói và gửi đi, người mua không phải động tay, không cần biết mặt cái xe. Nhưng ai gửi, lục soát đến đâu cũng không ra ai. Không một cớ nào để đoán nổi. Cuối cùng, trong ý nghĩ tôi đọng lại hai con vợ mất tích kia, mà có lần người ta đồn nó đã đi những nước nào nước nào sướng hơn tiên. Có lẽ là mụ ta. Lúc khó nhất người ta cũng nghĩ rồi ra có lúc được mở mặt, hay là nó, chỉ có nó mới biết tên tôi, số nhà tôi, mà xét những mối quen biết thì quanh đây cả, chỉ bọn khố dây, ai mà có được hộp sang này! Đích là nó rồi. Chỉ có con vợ trước ở Tam Mai thấy bảo lấy chống, làm cut-lít có thể nó về bên Tây bên Mỹ, Nhưng con ấy lại không biết chỗ tôi ở bây giờ. Thế thì ai gửi cho tôi, lại rồi ruột thêm. Tôi có hai vợ, hai đứa con thật sự còn con rơi con vãi ở đâu không kể. Chẳng nhẽ con vợ nào của tôi đã sa chân xuống tận vũng bùn tư sản lại còn hơi sức nhớ đến tôi. Hay là…
Hay là cái này của địch, là âm mưu địch, thằng địch chúa thằn lằn nham hiểm đi cải cách ruộng đất đã thấy đấy. Tôi mất mũ cán bộ đã lâu, mà vẫn chưa quên cách phân tích địch ta. Thế nhưng ở trên đời này, thằng địch ba đầu sáu tay nào mà lại biết tên tôi là quân tố hửu Nguyễn Văn Bối. Ông bơm xe, ông bán nước, quanh năm không nhìn ra ngoài cái bơm, cái chén, nhưng thoáng mắt đã nghe biết cái khôn dại của bao nhiêu người đời. Nghe nói có nhà có người ở nước ngoài gửi các thứ về cho nhà bạn để ăn, để sướng, tôi cũng đương được “tiếp tế” như thế, chứ có phải địch mua chuộc đâu.
Bao năm nay, trời nắng hay trời mưa, tôi chỉ có cái bơm và lê la quanh mấy gánh cơm dưa cà đậu om, canh đậu, có cái ghế treo trôn, quang khách đến bà hàng mới bỏ ghế ra, sợ ngồi xúm xít thì công an đuổi.
Số thuốc tôi bán dần. Ôi, những chi tiêu thăng hoa khỏi mụ hàng cơm gánh. Tôi xuống chợ trời mua bộ quần áo ka ki đại cán cũ. Mới ngày nào, cán bộ thủ trưởng và nhân viên mặc đại cán như nhau, bây giờ có tiền hoạ hoằn mới có người mặc, anh xe ba gác, xe xích-lô… Dù qua mặt cũng không ai nhìn, việc đời cái gì rồi cũng trôi đi. Đời cán bộ của tôi đã chấm dứt từ bộ đại cán sang cái bơm, tôi vẫn thấy mặc đại cán được và hợp mắt. Chập tối, tôi không đến gánh cơm quán đầu ghế nào. Đã lâu, mới nhớ phải hưởng một bữa có chất. Cuối phố kia mà tôi vẫn biết ở đấy có một hiệu ngoài tủ kính bày mấy lọ mắm tôm bán sỉ, nhưng trong nhà làm chui cơm tắm giò chả. Tôi đi đánh chén một bữa cật lực, bội thực không thở được, chỉ còn sức bửa say được về nhà, lăn đùng ra.
Tôi nhét cái bơm vào gầm giừơng. Nghỉ ít lâu cho khuây khoả cơn sầu đã nào. Nhưng vài ba tháng nằm khàn, ăn vỗ béo rồi ngủ, gói tiền to đến bằng cái tải gạo cũng phải toang ngoảng. Rồi hết tiền, lại vác cái bơm ra ngã năm. Tôi chép miệng. “Tiền bắt được như tiền cờ bạc, của phù vân vẫn vào nhà rồi của phù vân lại đội nón ra đi, thế thôi”. Tôi thở dài, tự an ủi.
Tôi khắc khoải vu vơ mong lại nhận được giấy báo nhà bưu điện. Tôi tính ngày, so sánh năm tháng, đoán có lẽ vào dịp Tết ấy ra. Rồi mấy Tết cũng chẳng thấy đâu. Cái gói tiền đã xa như chiêm bao từ ngày xưa, Tôi lại cắm cúi, vật vã nhảy nhấp nhô cỡi lên cái bơm.
Nhưng quái sao, tôi thở dốc: Tôi béo tốt hẳn hoi, râu mọc um tùm đem mỡ ra. Thế mà hai cánh tay rã rời muốn vập mặt xuống cái bơm rỉ. Tôi không bơm xe được nữa. Tôi đẫy đà ra nhưng tôi kiệt sức rồi. Cái túi tiền đã giết tôi.
Hôm sau, tôi lại vác cái bơm ra. Nhưng cả buổi chẳng được một nhát. Khách quen không có ai. Người lạ trông thấy tôi mặc cái áo đại cán, mặt mắt húp híp, người ta đạp xe thẳng. Rồi tôi cũng được khách, nhưng vừa buông buông cái bơm, tôi nghẹn cổ không thở được. Ông khách đùa: “Ông béo sung sướng phát phì thế thì đi nghỉ mát, chứ bơm xe là ốm đấy”.
Tôi chết thôi. Cái thằng Vách, thằng Vách chết như đi chơi, lại còn gọi người đến xem nó chết. Thế mà hay. Lẽ nào tôi hèn không bằng thằng Vách. Tôi chết cũng vừa, đủ mùi đời rồi.
Tôi ngồi dậy. Tôi với tay vào góc buồng kéo cái hòm gỗ. Trong ấy, mọi thứ đều được nhặt trữ lại. Người khó nhặt nhạnh chẳng muốn vứt đi cái gì. Tôi tìm cái quần rách. Tôi bện thành cái thừng.
Tôi chợt thấy vẫn còn chiếc ruột tượng đựng gạo ở cơ quan trên Thái Nguyên. Mỗi lần ra khỏi rừng đi công tác ai cũng đeo vắt vai một hai bao gạo. Ôi, cái ruột tượng đựng gạo còn lại đến bây giờ, được được đấy.
Tôi đứng lên mặt bàn, buộc một đầu ruột tượng lên xà nhà, ở bên kia thõng xuống, thắt nút tròng lọng lại. Tôi ngắm nghía. Chui vào, đạp đổ cái bàn dưới chân thì tôi bằng thằng Vách.
Tôi ngồi thừ một lúc lâu. Không phải tôi ngần ngừ mà tôi mỏi như sắp chết, tôi ngồi thế này chắc một lúc nữa tôi cũng chết. Không phải. Tôi nhớ ra tôi sắp lả đi vì đói. Thế thì đi ăn cái gì, chẳng nên làm còn ma đói.
Chiếc tròng lọng ruột tượng trắng nhờ như giải khăn tang lơ lửng giữa nhà. Tôi khoá cửa, bước ra.
Lại biết chỗ ấy có quán cơm mà mật hiệu là cánh cửa đóng một bên. Mở mảnh ni lông che tường ra, tròng treo cỗ lòng tráng, cái cổ hũ trắng phau, có phở, có cháo lòng, tiết canh đủ thứ. Thành phố tiêu điều không phải vì chốc chốc lại báo động máy bay. Bề ngoài thôi, người ta ở trong nhà mà vẫn hàng phở, bánh cuốn, bánh giò, rượu cuốc lủi được gọi nhẹ nhàng là nước mưa…
Vừa đi vừa nghĩ những cái ăn, như người thành phố bom đạn đương thiếu đói, thì chết làm sao được. Tôi cũng tự mang máng thế. Tôi lử khử, dật dờ đi. Dẫy phố im ỉm. Thế mà cái quán này đèn sáng. Ngọn điện che mảnh bìa cứng, bớt sáng hắt ra, theo lệnh phòng không. Tôi bước qua chỗ của tôi vào sáng đèn, tôi choáng người. Lão chủ quán cái mặt hệt thằng địa tư Nhỡ. Chỉ khác bộ râu quai nón trắng như cước, tóc và râu dài xuống giữa lưng, giữa ngực. Tôi hốt nhiên phấp phỏng. Hay là tôi đã thắt cổ tôi chết rồi, tôi gặp hồn thằng tư Nhỡ ở cửa địa ngục suối vàng.
Chủ quán nhác nhìn tôi, hỏi ngay:
- Anh đội Bối phải không? Cũng râu ria như thằng địa chủ à?
- Ông… tư Nhỡ.
- Nhớ dai đấy. Anh ngồi chơi.
- Bây giờ ông…
- Thế thôi. Ồ lâu lắm mới gặp. Đánh chén cái đã. Không phải ăn nhà hàng, mà tôi thết ông. Dám chứ? Tôi vẫn ơn ông không qui tôi là địa; nhưng ông vượt mặt thế nào được thằng đội Cự, có phải không ạ?
Toàn việc người sống. Tôi còn biết nói thế nào. Cái anh đội Bối cũng xa xôi hoá thành thằng bơm xe rồi. Những kiểu cách ta đây cán bộ ra về hiểu biết, đứng nói hấm hứ băm băm tay, tôi chẳng còn đâu điệu bộ dở dang ấy nữa. Quên rồi, cả như chuyện Âm Phủ. Tôi không ngại, cũng chẳng ngượng với tư Nhỡ. Dường như lại quen ngay. Ai cũng chỉ ưa nhớ lâu những cái dễ chịu. Rồi vừa nhớ lại, vừa không muốn nhớ, như mê ngủ. Bây giờ rõ rằng tư Nhỡ mời tôi đánh chán. Ừ, đánh chén. Thằng bơm xe đạp nhặt từng hào giấy thì chỉ thèm đánh chén.
- Vào, vào uống chén nước đã.
Nhà tư Nhõ hai buồng, liền phòng trong, cái bếp đã được dênh ra ngay đầu gian bán hàng, đây chỗ ngủ kê vừa chiếc giường một.
Trên mành mành che, buộc cái mạt to sơn kẻ đòng chữ xanh tròn quanh theo khung: Hutte cent ans kèm chữ quốc ngữ hắc ín đen nhánh “Lều trăm năm”.
“Vẫn cái “động trăm năm “, ông ạ.
Tôi pha trò:
- Có còn tay cán nữa đâu
Tư Nhỡ vuốt râu cười:
- Vẫn còn công an, cán bộ thuế mà mình là thằng bán hàng chui. Cái lều ông già trăm năm này có giá trị trình bày lắm. Tôi lão rồi, tôi ốm yếu sắp chết rồi, tôi kiếm ăn cò con, các ông tha cho. Ít người biết chữ Tây nên phải viết kèm chữ ta cho các anh ấy để hiểu để thông cảm. Chỉ có bây giờ mà đội bắt tôi thì tôi chịu chết, không còn sức leo tường nhà giam. Nhưng cũng chẳng cần. Mấy chục năm từ ở cái “động trăm năm” này tôi đã luyện đắc đạo phép tiên.
Tư Nhỡ miết ngón tay cái vào ngón tay trỏ, giơ cao bật tanh tách rồi cười khơ khớ: Phép tiên Xìn! Xin tiền! Tiến! Tôi bây giờ tên là thằng Xìn.
Tôi lờ đờ vẻ không biết, hững hờ hỏi:
- Ông có hay về Am không?
- Tôi biệt xứ từ ngày ấy. Vợ tôi chết tôi cũng chôn ở Văn điển. Không biết dưới ấy vào hợp tác rồi có cao bằng cả làng thành một hố không, còn tôi đã từ làng, từ họ rồi. Họ hàng mà đấu nhau đến thế, còn mặt mũi nào. Nhưng mà có phúc có phận cả, nhờ các anh về làm tan hoang lên thế, thằng tư Nhỡ có suýt chết mới lại được thế này. Mấy lỵ tôi mà thò đầu về, đứa nào dò được tông tích tôi trên đây, có khi tôi lại ăn đất, anh ạ. Chốc nữa anh lên công ăn khu báo cáo có thằng địa trốn lên đây đội lốt công thương thì tôi cũng rũ tù Hoả Lò ngay. Nhưng mà anh đã thương tôi, nỡ nào, phải không. À mà tôi cũng thay tên đổi họ rồi. Bây giờ họ tên tôi là Tạ Xìn, Tạ Xìn. Tiếng Tầu “xìn” là tiền, “Tạ xìn” là một tạ tiền, tôi thờ than tiền. Khi nhỏ, tôi hay chơi chữ, đã “lều trăm năm” lại hoá ra “tạ tiền”. Tạ Xìn bán phở ngầu pín dái bò dái dê, lại cả phở không người lái. Bánh phở Tạ Xìn đương có tiếng đấy.
Lão nói toang toang gay gắt một cách từ tốn. Ở đời không rõ đầu lưỡi hay trong bụng, tôi thấy ai cũng tự tin hơn tôi, tôi cũng đâm ra rúm ró. Tôi mờ mờ những sóng gió thôn Am, thôn Chuôm. Tôi có cảm tưởng tư Nhỡ đương là thằng Tề Thiên Đại Thánh đánh cả trời mà tôi như con nhái đứng dưới đất giương mắt chẫu, mắt nhái, mõm nhìn lên.
Tôi nhấm nháp chén chè Tân Cương pha bằng nước đun ở cái ấm điện tý hon chỉ vừa vài chén hạt mít. Một lát, thấy một đứa con gái bưng một mâm vào. Trên mâm, hai bát chậu đựng những cánh xương sườn lợn cong lên như cọc bờ rào, khói béo nống bốc nghi ngút. Xương ninh làm nước phở, ngon nhất. “Bán phở mà tôi cấm có ăn phở. Tôi không thích mâm bát lôi thôi. Tôi chỉ nhắm rượu, gặm xương. Ông chiều tôi”.
Tư Nhỡ lại nói, giới thiệu:
- Cái này là út của tôi. Nó làm mậu dịch, nó là cô mậu bán thịt cho nên bố nó mới được cái khoái này. Bây giờ là nhất nhà mậu, nhà mậu được cái chén ngay, rồi mới đến nhì thân, ba thế.
Lúc này nhìn đứa con gái tôi ngỡ con bé con, bây giờ mới nhận ra cô mậu dịch áo vét xanh da trời, hai bím tóc tết buông xuống lưng, đội dép râu, tôi đâm sợ. Ai mà chẳng sợ những cô mậu cong cớn, cô ném ra bán như thí cho bó rau nào thì được nhặt bó ấy.
Tôi uống rượu chẳng mấy. Tư Nhỡ thì vén râu tì tì từng chén. Tôi nhấm nháp theo cũng hào hứng dần lên và thế là nhãng mất cả chuyện thắt cổ. Đấy, tôi ví thế nào, tôi hèn, tôi bằng thế nào được thằng đồ tể Vách kia, tôi mới chỉ gặm miếng xương mà đã…
- Ông tư ơi, ông được mấy người giỏi như có mậu này?
- Mỗi đứa một phân, không đứa nào giống đứa nào.
- À…
- Chẳng giấu ông, nhà tôi có hai thằng xuất ngoại, một ở Liên Xô, một ở Hung.
- Hai đứa đi nước ngoài? Luật chỉ được một thôi mà.
- Đã bảo tên tôi là Xìn, tôi là Tạ Xìn, giới thiệu mãi rồi.
- A.
Thế mà tôi lại nhờ cái thơ ném lại cho “cậu mợ và các em Hương, Hiền, Vinh, Phú, Quý” của đứa nào ngày ấy bỏ nhà đi. Không biết nó là đứa nào trong đám con Tư Nhỡ.
Tư Nhỡ lại nói:
- Một thằng đi bộ đội, chốc nữa về.
Tôi đáp giữ nhịp:
- Thế à?
- Cũng cho một đứa đi bộ đội cho phải phép. Bộ đội thời đánh Mỹ mà được ngủ nhà, thế mới chúa. Cái đấy phải chạy mệt hơn lo cho những thằng đi nước ngoài.
Từ lúc ngồi ở cái giường trong “Lều trăm năm” ở thành phố này mỗi lúc tôi lại rạp người xuống, tôi lạy phục tư Nhỡ, rồi chúi đầu ăn như ma đói. Chẳng mấy lúc say đứ, nằm đờ ra. Cái thân tôi ăn
cũng khổ, lúc nào cũng sắp chết vì bội thực. Tỉnh lại, thấy tư Nhỡ ngồi nguyên thế, đầu gối rung bành bạch, chốc lại vạch râu tiếp một ngụm.
- Thức rồi à? Làm bát không người lái. Phở nóng, nhiều hành, tỉnh ngay.
- Tôi về…
Về làm gì. Trời mát, tao với ông nằm cái giường này vừa mà nhà mày thì như cái ổ chó!
- Ông biết nhà tôi?
- Tao biết cả mày đứng bơm xe đạp ở ngã năm, biết lâu rồi.
Chưa húp bát phở nóng mà tôi tỉnh tức khắc. Tôi bơm xe đã thành tật cứ lúi húi vặn vặn, lắp vòi, lúc nào cũng rũ mặt xuống hai tay ấn bơm, chứ mấy khi nhìn ai.
- Về đây làm với tao.
Tư Nhỡ đứng dậy chếnh choáng vịn tay vào tường.
- Ấy cái tội của các ông cải cách đây. Thằng tư Nhỡ tụt tường nhà giam trốn ra, què một chân.
Bắt chợt, tư Nhỡ hét:
- Bối! Thằng đội Bối!
Tôi trố mắt, ngơ ngác.
- Kìa “dạ” đi, lậy ông địa đi. Tao đương bắt chước các ông đội đây. Như mà làm trò chèo tuồng cải lương thế thôi, tao không báo ân báo oán như cái con Thuý Kiều giang há nhà thổ đâu.
Mỗi việc, mỗi câu của tư Nhỡ như đấm vào mặt, vào bụng, vào lưng, tôi chỉ biết oằn người ra chịu đòn.
—Nhà nước chỉ cho ăn vã bo bo, bột mì rán khan, cái bánh phở là quốc cấm, phải chạy nhiều cửa mới có chén rượu, có miếng xương này. Mai đến đây, khối việc. Mày không ra sao cả.
Tôi thì không ra sao từ lâu lắm rồi. Cái vốc tiền dạo trước c